Thứ Năm, 18 tháng 4, 2019


                          “Trại 37 chú và nàng Bạch Tuyết” bên dòng Sê San
                                                                                         Quốc Ninh
Ấy là tôi muốn nói đến một bộ phận gồm 37 cán bộ, kỹ sư, công nhân thi công của Công ty công trình ngầm (thuộc Tổng công ty thủy điện Sông Đà) một trong những công ty chủ lực xây dựng công trình thủy điện Ia Ly ngày nào. Bởi họ là những người đầu tiên “ngủ rừng, cơm vắt” bên hữu ngạn sông Sê San để đặt máy khoan đường hầm dẫn nước và đường hầm đặt các Tổ máy cho Thủy điện Ia Ly…
Còn nhớ, một ngày mùa khô cuối năm 1992, tôi cùng các đồng nghiệp Thanh Phong, Đức Thanh và Trần Văn Nghĩa có chuyến công tác tại công trường xây dựng Thủy điện Ia Ly. Mấy ngày liền chúng tôi lặn lội trong tiếng ồn ào xe cơ giới, bộn bề đất đá công trình; cùng ăn cùng ở với những công nhân thi công trên công trường. Nhưng ấn tượng nhất là đêm cùng với trại của 37 cán bộ, kỹ sư, công nhân kỹ thuật bên rừng sông Sê San đặt dàn khoan núi. Gọi “trại” là bởi: công ty thì đóng bản doanh bên hữu ngạn sông Sê San (thuộc đất Gia Lai), còn họ-37 cán bộ kỹ sư và công nhân thợ khoan  hầm thì đóng trại tiền tiêu để khoan hầm đặt các tổ máy của thủy điện Ia Ly ở bên hữu ngạn Sê Sê San (thuộc đất Kon Tum) . Khi ấy, người trực tiếp đưa chúng tôi đến trại là các kỹ sư tên Trung và Đức phụ trách kỹ thuật, đồng thời là chỉ huy đội khoan núi. Ngày ấy, đập chưa ngăn nên đi lại giữa 2 bờ công trình Thủy điện Ia Ly phải vượt sông Sê San phải bằng xà lan hay ca nô. Khi chúng đến thì anh em kỹ sư và công nhân đang lắp đặt dàn khoan hầm dẫn nước. Chứng kiến khoan hầm là vậy, nhưng với mắt thường của chúng tôi thì chỉ thấy đứng trước một vách núi như một bức trường thành, heo hút hoang vu…Khi hoàng hôn buông xuống, chúng tôi theo mọi người về trại . Nói là trại, thực ra chỉ có cái lán sơ sài nhiều cột. May chăng lán của chỉ huy Đội còn ra dáng cái nhà có bàn có líp che. Còn lại anh em mắc võng ngủ như bộ đội thời chiến. Chiều về mọi người sau khi tắm suối thì quây quần về lán. Hôm ấy, chúng tôi cứ thấy họ nấn ná như đợi ai…thì có tiếng reo:
-A. “Bạch Tuyết” về rồi. Thì ra, người phụ nữ ngồi trên cái xe máy “công trường” bám đầy đất đỏ, với lỉnh kỉnh thực phẩm tươi sống; và, khác mọi ngày là có thêm can rượu, 2 thứ mà mọi người đang đợi: “Bạch Tuyết” và rượu, vì hôm nay trại có khách mà. Giải thích cho chúng tôi kỹ sư Trung hóm hĩnh rằng: “Trại có 37 chàng đực rựa, duy chỉ mỗi Mỵ người phụ nữ duy nhất vừa làm kỹ thuật vừa là “chị nuôi” cho cả đội”. Dừng đôi chút, Trung nói thêm: “Mỵ tuổi đã ngoài 30 nhưng vẫn mãi mê năm tháng theo hết công trình này công trình khác, anh em xem Mỵ là “Bạch Tuyết” của mình”
Đêm ấy, chúng tôi đã vui hết mình giữa chốn rừng thẳm cùng những người thợ khoan. Một không gian lãng mạng mãi đến bây giờ tôi vẫn nhớ, ấy là cái tiếng suối róc rách, róc rách bên tai. Và rừng thật lạ, phong lan ta mang từ rừng về nhà trồng hoa thường thơm vào buổi sáng, còn ở chốn thâm sâu này màn đêm sập xuống lại có thoảng mùi hương. Và câu chuyện giữa chúng tôi mỗi lúc một gần để chia sẻ hiểu nhau hơn. Mỗi người trong đội đều có một biệt danh: Trung và Đức đều học ở Liên Xô (cũ), Trung to cao giọng khàn nên gọi “Trung cồ”; kỹ sư Đức râu quai nón 37 tuổi chưa có người tình vắt vai gọi “Đức râu”. Còn Mỵ, là nàng “Bạch Tuyết” của cả trại, nhưng với riêng mình đã trèo đèo lội suối cả núi rừng Tây Bắc đến núi rừng Tây Nguyên, vẫn chưa chưa tìm được “A Phủ” cho mình…
Bây giờ, mỗi khi có dịp cùng bạn bè thăm Công trình Thủy điện Ia Ly (Chư Pah, Ia Lai), ai cũng thốt lên về sự vĩ đại của công trình thế kỷ. Tôi và ai đó thạo biết về Thủy điện Ia Ly vẫn thường sang sảng giới thiệu rằng: “Công trình có công suất lớn 720MW, khởi công ngày 4-11-1963, phát điện tổ máy Số 1 vào ngày 12-5-2000…”. Nhưng sau những lời hào sảng ấy, trong tôi thường liên tưởng nhớ về cái ngày xưa ấy. Tôi từng nghe có người sau này là lãnh đạo của Tổng công ty Sông Đà, có người nằm lại mãi mãi bên dòng sông Sê San. Và đâu đó có những người phụ nữ đi xây dựng thủy điện như “Mỵ-nàng Bạch Tuyết” họ vì công trình mà đã thành “vọng phu” ở bến không chồng.
                                                                                     QN


Thứ Năm, 30 tháng 8, 2018


                 Hồi ức của những thầy giáo đi B
                                                                                         Quốc Ninh

“Anh hỏi tôi về ngày lên đường vào Nam ấy à. Lâu rồi mà… À tôi có câu thơ này, đọc anh nghe nhé: “Nghe theo tiếng gọi non sông/ba ngàn giáo giới điệp trùng vào Nam/Cùng bạn tại chỗ chống càn/Mở trường gieo chữ nguy nan chẳng sờn”…Ấy là câu chuyện giữa tôi và thầy Phạm Văn Nguyên, cựu giáo chức, một trong những thầy giáo miền Bắc “đi B” chi viện “con chữ” cho miền Nam nói chung, Gia Lai nói riêng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Nhắc chuyện dạy và học ngày trước giải phóng ở khu căn cứ Krong-thị trấn Dân chủ (huyện Kbang hiện nay) của tỉnh ủy Gia Lai, thầy Phạm Văn Nguyên nhớ lại: “Đoàn chúng tôi lên đường đi B vào ngày 23-4-1972, hành quân bộ trên đường rừng Tây Trường Sơn, ngày đi đêm nghỉ, sau 3 tháng ròng chúng tôi có mặt tại nơi đóng quân cả Bộ Tư lệnh Quân khu V. Tiếp đó, tôi cùng các anh Nguyễn Văn Mộc (quê Hà Nam); Đặng Hồng Phàn (quê Nam Định) và Trần Quang Nhật (quê Hà Nam, đã mất) được phân về tỉnh Gia Lai, công tác tại Ban giáo dục tỉnh, cá nhân tôi từ nhân viên sau đó được giao làm Phó trưởng ban Bổ túc văn hóa của tỉnh cho đến trước ngày giải phóng”. Qua hồi ức của thầy Nguyên và các cựu giáo chức kháng chiến thì, ngày ấy, ở khu căn cứ đã có các trường để đào tạo cán bộ cho tỉnh như: Trường Bổ túc văn hóa cán bộ thành lập năm 1965, là một bộ phận của trường Chính trị tỉnh bấy giờ do đồng chí Bluk phụ trách đứng chân ở Khu 2 (xã Lơ Ku, Kbang), trường Bổ túc văn hóa ở Khu 7 (năm 1968), ở một số huyện còn có các lớp Bổ túc văn hóa để dạy chữ cho cán bộ xã, và các cháu thiếu niên; trường Sư phạm được thành lập năm 1969, đóng tại khu 2 (tại xã Sơ Pai, Kbang) người phụ trách đầu tiên là đồng chí Lê Chấn; Trường Nội trú tỉnh thành lập năm 1970 (tại Khu 2- xã Lơ Ku bây giờ) và đến tháng 10-1973 thì trường Phổ thông đầu tiên ở thị trấn Dân Chủ được thành lập…
Chuyện dạy và học ngày ấy cũng thật…kháng chiến. Ví như, trường Bổ túc văn hóa cán bộ ở Khu 7- huyện Kông Chro bây giờ, khóa học đầu tiên học viên bao gồm cả người Kinh, Banah, Jrai và cả học viên từ Tỉnh ủy Phú Yên, Khánh Hòa gửi lên học. Lớp học còn có các cháu là con em cán bộ tại chỗ cũng được chiêu sinh, khóa học đầu tiên của trường được trên 70 học viên. Giáo trình, giáo án cũng có nhưng thiếu thốn nhiều. Còn trường Phổ thông đầu tiên ở thị trấn Dân Chủ, ban đầu chỉ có 2 thầy giáo, với 5 bộ giáo trình mà đã đặt nền móng cho sự nghiệp giáo dục phổ thông Giải phóng trong cuộc kháng chiến vệ quốc ở Gia Lai. Ngày ấy, vừa học, vừa làm, vừa tăng gia sản xuất tự túc cho đời sống của cả thầy và trò. Vậy mà, nhờ các lớp học ngày ấy đã nâng cao văn hóa, dân trí cho đội ngũ cán bộ và nhân dân vùng giải phóng của ta. Là cái nôi đã nuôi dưỡng bao thế hệ cán bộ chủ chốt từ trong kháng chiến và cả đến hôm nay.
Chuyện kể của các thầy giáo kháng chiến lúc vui, khi chùng xuống về những kỷ niệm thuở nào, về những thầy giáo vừa dạy học vừa phải cõng gùi, mang súng như bao chiến sĩ tiền phương đầy nguy hiểm và bất trắc trong chiến tranh. Các thầy giáo ngày ấy, không chỉ dạy học, mà còn là cán bộ dân vận,  thâm nhập vào dân tuyên truyền vận động bà con cho con em đi học và cung cấp lương thực thực phẩm cho cách mạng. Ngày ấy, gian lao, sống chết bất thường mà tình người đầy ắp…Là những kỷ niệm không thể nào quên khi đi cõng lương thực, thực phẩm ở Kon Pne, khi đồng đội sốt rét ác tính, những thầy giáo như ông Nguyên có thể chạy bộ xuyên rừng, xuyên đêm để đưa cán bộ y tế đến cứu chữa; là những lần đi gùi nhu yếu phẩm ở đồng bằng, gặp địch phục kích, lạc rừng vẫn bám trường bám địa bàn.
Giờ đây, ngồi ôn lại chuyện xưa, các cựu giáo chức thời kháng chiến người còn, người mất. Với riêng nhà giáo Phạm Văn Nguyên, đã có một gia đình giáo chức có các thế hệ nối tiếp cha ông, viên mãn. Nhìn vào những Bằng khen, và những giải thưởng lớn về thơ ông viết về Trường Sa, về khí tiết người Việt, tôi cảm phục không chỉ tính mô phạm trong ông, mà còn ở tính kiên trung, ân nghĩa của người thầy giáo trong kháng chiến, từ chính câu chuyện trước lúc ông khoác ba lô đi dạy học ở chiến trường: “Biết sâu sắc hoàn cảnh của tôi đi B có mẹ già và 4 con nhỏ, ngoài chính sách chung, Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện Xuân Trường (Nam Định) nơi tôi lên đường đi chiến trường đã cấp cho mẹ tôi một cỗ áo quan (thời trước, các cụ già miền Bắc thường quan niệm: sống cái nhà, già cái mồ-NV), phòng khi cho tuổi già lúc lâm chung mà người trai cả như tôi vắng nhà. Đây là ân nghĩa mà tôi ghi nhớ suốt đời”.
                                                                                       QN

Thứ Năm, 18 tháng 9, 2014

NGHÈ GIÁP, ĐỀN NƯA VÀ LỄ HỘI VĂN HÓA TÂM LINH

NGHÈ GIÁP, ĐỀN NƯA
VÀ LỄ HỘI VĂN HÓA TÂM LINH
                                   Nguyễn Thị Hoa – Quốc Ninh  
Làng Cổ Định một vùng đất thiêng - Địa linh nhân kiệt, sơn thuỷ hữu tình.Từ thời thượng cổ nơi đây là một tụ điểm của cư dân Việt. Với cái tên khai sinh Chạ Kẻ Nứa cũng cho thấy nó là cộng đồng của thị tộc nông thôn nguyên thuỷ thuở xưa .
Cùng với sự phát triển của Lịch sử cái tên làng cũng được thay đổi nhiều lần, sự tách nhập cũng được diễn ra theo những thời điểm cụ thể. Có lẽ từ thế núi thế sông ấy mà dân cư xưa đã chọn nơi đây lập làng sinh sống.  Làng Cổ Định chỉ với diện tích 2.573,99 ha nhưng lại là khu vực dày đặc các di tích lịch sử văn hoá với 11 Đình, 9 Chùa, . Vùng đất thiêng này cũng đã sản sinh biết bao anh hùng hào kiệt, danh nhân làm rạng danh quê hương, đất nước.
Đỉnh Am Tiên, Ngàn Nưa

Thứ Hai, 24 tháng 2, 2014



MNG XUÂN GIÁP NG

                       Lê Tân
  Ngựa quý về đây, tiễn mãng xà
Con đường gian khó đã dần qua
Đầu xuân đón tết hoa đua nở
Cuối xóm đưa chân bước rộn xa
Nông nghiệp đổi thay đồng mẫu lớn
Công thương phát triển: pháo tung hoa
Gia đình, đất nước vui khôn xiết
Thế giới chung tay kết một nhà