Nhìn từ giác
độ văn hóa và lịch sử, cổ vật luôn mang trong mình thông điệp gửi lại cho đời
sau. Trong trường nghĩa tương đồng ấy, những cây đại thụ không chỉ như một bức
thông điệp giàu giá trị mà bản thân sự sống xuyên thế kỷ còn mang tính nhân
văn, đôi khi nhuốm màu huyền thoại và
tâm linh.
Trên nẻo đường xuyên Việt, tôi-một lữ khách đã không
dưới một lần lặng đắm suy tưởng bên bên những cây đại thụ ấy…Có cây đã được
công nhận là “Cây di sản” quốc gia, có cây đến nay vẫn chưa được xác định niên
đại…nhưng mỗi lần nghiêng mình trước cây, tôi vẫn luôn tự đặt cho mình câu hỏi:
là cây đang sống, lại là đại thụ thì mỗi cây hẳn cũng có một số phận, chắc sẽ
có những truyền kỳ, giai thoại; vậy cây có “hồn” không nhỉ?
Từ truyền kỳ
cây thị ngàn năm tuổi ở Tràng An
Du ngoạn ở khu du lịch lịch sử, văn hoá và sinh thái
Tràng An – Bích Động, Ninh Bình-nơi được ví là Vịnh Hạ Long trên cạn, tôi không
khỏi xao xuyến khi đắm mình vào những hang động kỳ thú, mà người đời phải thốt
lên:“Xuyên Thủy Động Tràng An”. Nơi đây có khoảng 50 hang xuyên thủy mà tại mỗi
hang mỗi vẻ đẹp độc đáo riêng. Trong Quần thể Xuyên Thủy Động Tràng An có gần
tới 30 cái thung, mỗi thung là một bức tranh thủy mặc khác nhau mây trời, non
xanh, nước hòa quyện vào nhau. Nhưng trong cái mênh lung thuỷ mặc ấy lại chứa
đầy huyền tích: hang Tối, hang Nấu rượu thời nguyên thuỷ... Xin khất lần sau để
nói về thuỷ mặc, ở đây chỉ xin đựơc đôi nét về truyền kỳ cây Thị Tràng An.
Bên gốc thị ngàn năm |
Hẳn mọi người
cũng giống như tôi sẽ không thể không ngưỡng phục đứng bên gốc thị ngàn năm
tuổi ở Đền Ông. Truyền tích được ghi trong sử sách, được các cô lái đò thuộc
nằm lòng. Chuyện kể rằng thuở xưa, thời vua Đinh Tiên Hoàng đã chọn vùng Trường
An-Bích Động lập luỹ trấn giữ và Hoa Lư làm kinh đô, Ngài cũng chọn nơi đây làm
nơi an nghỉ cuối cùng. Chuyện cũng kể rằng, khi vua Đinh Tiên Hoàng băng hà có
7 vị quan trọng đại thần trong triều tự tay khâm liệm đức vua, ngày di quan,
quần thần thấy khênh qua cửa chính cung có đến 100 chiếc quan tài bằng đồng
(trong đó một chiếc có thi thể vua, còn 99 chiếc quan tài không), rồi được chôn
cất theo bốn hướng Đông, Tây, Nam, Bắc. Sau khi an táng vua xong, 7 vị trung
thần âý tụ lại với nhau trên một phiến đá, chung nhau uống một chén rượu độc
cùng tuẫn tiết vì vua. Cái chết của các vị trung thần đã mang theo cả bí mật về
ngôi mộ thật!
Cảm phục nghĩa
khí và lòng tận trung của 7 vị trung thần, một viên quan trấn giữ thành Nam, tước
hiệu là Đinh Công Tiết Chế đã lập đền thờ và trồng một cây thị ngay bên phiến
đá ấy…Cây thị bây giờ vẫn còn, cứ tính theo năm vua Đinh Tiên Hoàng mất, thì tuổi
của gốc thị đoán đã ngàn năm có lẻ. Tận nhìn gốc thị, ta thấy những u, những
trếu đã bám chặt xung quanh và trùm lên phiến đá “đá níu cây-cây ôm đá” mà thấy
hình bóng và khí phách người xưa…Đến nay, mùa thị về cây vẫn sum sê nhiều quả
và lạ kỳ thay, một nửa là quả tròn, một nửa là quả vuông. Lớp trước ngã, lớp
sau trỗi dậy nối tiếp. Cây thị xưa, nay gốc vẫn còn , cây thị bây giờ là một
nhánh hậu duệ nẩy lên từ gốc đó, nếu tính tuổi cũng đã cả trăm năm…
Tôi đã đứng lặng hồi lâu bên gốc thị ngàn năm, để cảm
nhận về sức sống của một loài cây xuyên thiên niên kỷ. Dường như trước mắt tôi
như thấy các vị trung quân ngồi đó, tai như nghe vang đâu đây tiếng ngựa hí
ngàn năm trước, nhìn nhìn u trếu sần sùi của thị như một thông điệp: lòng
trung, nghĩa khí của người quân tử sống mãi với thời gian.
Đến chuyện
tình cây đa-thị
Nếu cây thị ngàn năm ở Tràng An là truyền kỳ lịch sử
đẫm chất trung quân, thì 2 cây đa ở Lam Kinh- Lăng tẩm Nhà Lê ở Thọ Xuân, Thanh
Hoá lại có một giai thoại về sự chung tình đầy tính nhân văn và lãng mạn.
Anh Trần Đức Duy, người có thâm niên 28 năm làm hướng
dẫn viên tại Di tích lịch sử Lam Kinh đã say sưa kể cho chúng tôi về chuyện
tình cây đa-thị đầy huyền tích. Cây đa-thị có người nói tuổi đã 200 năm, người
lại bảo 300 năm, thậm chí còn nhiều hơn…nhưng có một sự thật-thật đến thành
huyền thoại, như là cây cũng có hồn, có tình yêu và cũng chung tình như những
mối tình đẹp như con người chúng ta vậy. Chuyện lưu truyền rằng: trên 300 năm
trước, cạnh môn quan vào Lam kinh có một cây thị tươi tốt. Rồi tự nhiên có một
cây đa mọc bên cây thị. Cây đa lớn rất nhanh cao hơn cây thị, rễ cây đa cứ theo
chiều dài năm tháng quấn quýt xung quanh gốc thị, đa ôm thị, thị không nỡ lìa
xa đa…Bởi thế, những ngưòi trông coi bảo vệ Lăng cũng như dân trong vùng coi
đây là điều kỳ lạ và lưu truyền cho đến tận ngày nay về câu “chuyện tình” cây
đa-thị ở Lam Kinh.
Đa-Thị, Lam Kinh |
Đi giữa vẻ thâm u huyền mặc của Lăng, bên tai tôi là
những lời kể của anh chàng hướng dẫn viên du lịch, đầy truyền cảm, khi trầm khi
bổng, cảm giác như đang lạc vào một miền cổ tích. Theo cách ví von của riêng
mình, anh Duy gọi cây đa là “chàng” và cây thị là “nàng” đầy tính liêu trai. Khi “chàng” buông rễ xuống chỉ xung quanh
“nàng”, những cành tay “chàng” cũng vươn trong không trung không xa để mỗi khi
bão tố, hay nắng gắt cành lá của “chàng” ôm ấp che chở cho “nàng” đã mấy trăm
năm nay…Dù “nàng” đã lìa trần, nhưng “chàng” vẫn quấn quýt không lìa xa thi thể
của “nàng”… Theo lời kể của Duy, khi anh vào làm việc ở di tích lịch sử Lam
Kinh, hàng năm thị luôn trĩu quả. Năm 2005, bỗng dưng cây thị “ốm” lá ủ rũ rồi
khô cành, các nhà chuyên môn đã tìm mọi cách cứu chữa nhưng bất lực. Năm 2007,
cây thị như “ngọn lửa” bùng lên phút cuối, năm ấy thị đâm chồi nảy lộc và ra
nhiều quả, hết mùa thị chín, cây thị khô dần đến chết. Đến tận bây giờ “hài
cốt” của thị vẫn được cây đa ôm ấp…
Người hướng dẫn viên khu di tích dường như phấn chấn
hơn, anh còn đưa chúng tôi thăm và kể về chuyện tình của một cây đa khác cũng
trong khu rừng Lam Kinh, ấy là cây đa-hồng. Khác đa-thị, cây đa-hồng, trong
thân cây đa tự nhiên một cây hồng mọc lên, cành hồng xen lẫn cành đa...Nhưng đa
không ôm được hồng như đa-thị, chỉ mơn trớn thôi, bởi thế người coi lăng giải
thích: hồng “không thể” cho ra quả…
Mộc tinh?
Đến thăm khu di tích lịch sử Lam Kinh, hẳn không ai
không biết cây ổi cười. Cứ mỗi khi có ai đó đến bên cây, lấy tay cà cà vào gốc
thì toàn thân cây ổi như bị cù, cây rung lên, lá cây như cuời với khách. Về sự
tích cây ổi, anh Duy kể rằng, cách đây rất lâu, ở vùng lân cận Lăng có phú ông
họ Đỗ, nhà ông giàu nhất vùng, nên thường gọi là Đỗ Phú, nhưng hiềm một nỗi vợ
chồng ông lại hiếm muộm con. Một lần nghe thầy cúng mách nước, ông làm một lễ
và vào lăng họ Lê khấn vái cầu tự xin con. Ông đến thắp hương tại mộ vua Lê
Thái tổ cầu xin. Sau đó ông xin phép được trồng một cây ổi (tàu) một loại ổi lá
nhỏ li ti, chỉ trồng để làm thang thuốc. Sau đó, vợ ông sinh hạ được một cậu
con trai. Vì thế cây ổi đã là cây thiêng từ ấy… Nhưng phát hiện “ ổi cười” thì
mãi cách đây không lâu, có một người tên
là Điền Ngọc Sách, quê ở Phú Thọ-Đền Hùng vào Lam Kinh nghiên cứu cả tháng
trời, ông nghe kể về sự tích cây ổi bên mộ Lê Thái tổ, tình cờ khi ông chà chà
tay vào cây ổi thì toàn thân, lá rung lên như bị cù. Nhiều người thử làm ổi
cũng cười như vậy. Cây ổi cười được phát hiện từ đó. Nhưng lạ thay, mấy cây ổi
khác được chiết trồng bên cạnh, mọi người cũng “ cù” nhưng chưa thấy cười.
Cây ổi cười |
Chuyện hãy còn đó, nhưng người dân ở
vùng Lam Kinh bảo rằng cây cũng có hồn, cũng có tình, linh thiêng. Họ truyền
vào tai nhau: “Ở Lam Kinh có nhiều cây Mộc tinh”. Thực hư chuyện “mộc tinh” tôi
chưa tường, nhưng chuyện về cỏ cây, hoa lá, đến đá… cũng là biểu tượng của tình
yêu như chuyện hoa layơn, những nàng Tô Thị, những nàng Vọng Phu…được con người
gửi tình yêu muôn thuở và đó thì tôi đã nghe, không ít. Còn chuyện những cây đại thụ gắn với giai thoại tình sử
như cây đa-thị ở Lam Kinh thì đây là lần đầu tôi biết.
Nghe chuyện ly kỳ, lại đứng dưới bóng mát của đa,
ngước nhìn lên những rễ đa ôm trọn lõi thị khô, trong tôi bỗng ngân lên câu thơ
của một nữ kiếm khách, trong một bộ phim kiếm hiệp nổi tiếng: “Hỏi thế gian
tình ái là chi/Mà đôi lứa thề nguyền sống chết…”. Thì ra cái khát khao của con
người là vô tận, gửi gắm tình yêu vào đâu có thể, là ước nguyện nhân văn mãi
mãi không thôi.
Q.N
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét