Cromite Cổ Định – vùng mỏ anh hùng
LÊ HẢI
Làng Cổ Định nằm dưới chân Ngàn Nưa
không chỉ mang trong mình bao câu chuyện cổ tích, huyền thoại, chuyện
về các danh nhân làm rạng danh quê hương, đất nước, trong lòng đất quê
hương ấy còn chứa đựng một nguồn khoáng sản mà không phải nơi nào trên
thế giới cũng có. Đó là quặng Crome – một kim loại màu quý hiếm. Nếu
pha một tỷ lệ thích hợp Crôm vào sắt sẽ cho loại thép vô cùng cứng rắn
làm đường ray xe lửa, đúc nòng súng, chống rỉ sét, chống ma sát…
Trụ sở của mỏ Cổ Định hiện nay
Mỏ quặng này được phát hiện từ thời
còn thuộc Pháp bởi một sự hết sức tình cờ. Người dân quê tôi kể rằng:
vào đầu thế kỷ XX, một vị quan người Pháp, khi đạp xe qua chợ Cầu Trầu (
nay thuộc huyện Đông Sơn), phát hiện một người đàn ông dựng gánh nứa
bán ở chợ. Trong ống nứa rơi ra vài cục đất màu nâu, chứa rất nhiều hạt
ly ti màu đen huyền nhưng lấp lánh dưới ánh mặt trời. Đây là giai đoạn
người Pháp đang ra sức kiếm tìm khai thác nguồn tài nguyên, nhất là
khoáng sản tại các thuộc địa để phục vụ “mẫu quốc”. Và vị quan người
Pháp ấy chính là một nhà địa chất. Thông qua người bán nứa, ông ta biết
mẫu đất chứa loại quặng quý hiến ấy là ở núi Nưa. Chỉ năm sau, người
Pháp đã có đoàn về núi Nưa, tìm kiếm, khảo sát và đánh giá trữ lượng mỏ
quặng. Theo tài liệu của người Pháp cho biết: Cách nay khoảng 300 triệu
năm, vỏ trái đất có đợt vận động lớn, gây nên nhiều đứt gãy kèm theo các
hoạt động phun trào dung nham. Đỉnh Am Tiên của dãy ngàn Nưa chính là
một miệng núi lửa đã tắt mấy trăm triệu năm trước. Đá của núi Nưa chứa
trong mình loại quặng Crôme, khi bị phong hoá theo nước mưa trôi xuống
chân núi tích tụ lại thành mỏ sa khoáng. Thời ấy, người Pháp đánh giá
trữ lượng khoảng 20-30 triệu tấn. Đến năm 1923, người Pháp chính thức
bắt tay vào khai thác quặng và gọi tên mỏ theo địa danh của làng: mỏ
Cromite Cổ Định.Tuy nhiên, giai đoạn này việc khai thác mang tính thủ
công, dựa vào sức người là chính. Công việc tuy nặng nhọc nhưng hết sức
đơn giản: xúc đất chứa quặng đổ vào máng gỗ, cho nước chảy qua, bùn và
sỏi theo nước trôi đi, quặng Crome có tỷ trọng lớn nên nằm lại. Để thuận
lợi vận chuyển sản phẩm, người Pháp cho đắp đường từ thị trấn Giắt qua
chợ Nưa xuống tới Cầu Quan ( trung tâm hành chính huyện Nông Cống thời
ấy) và từ chợ Nưa thẳng vào chân núi, xây hai cầu bê tông qua sông
Lường; lấy Đồng Vặng làm trung tâm điều hành cả khu mỏ.
Công trường khai thác
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, do
hoàn cảnh đất nước chiến tranh, mỏ Cromite Cổ Định hầu như ngừng hoạt
động. Năm 1954, sau Hiệp định Giơ – ne- vơ, đất nước tạm thời bị chia
cắt làm hai miền. Miền Bắc bắt tay vào khắc phục hậu quả chiến tranh,
từng bước phát triển kinh tế, xây dựng xã hội mới. Lúc này, nhiều công
trình kinh tế trọng điểm của đất nước mọc lên, các vùng mỏ khai thác
khoáng sản từng bước đi vào hoạt động. Mỏ Cromite Cổ Định cũng nằm trong
trào lưu ấy.
Ngày 28 tháng 2 năm 1956, Bộ Công
Nghiệp Nặng ra Quyết định thành lập lại Mỏ Cromemite Cổ Định; đồng thời
điều gần 40 cán bộ từ nhiều khu mỏ khác nhau về làm bộ khung lãnh đạo.
Ngay sau khi tái thành lập, mỏ đã bắt tay vào khắc phục những cơ sở có
từ thời Pháp thuộc và đi vào sản xuất. Công nhân chủ yếu là người địa
phương. Cách thức khai thác vẫn theo lối thủ công có từ thời Pháp: dùng
máng gỗ để đãi quặng.. Đầu năm 1958, Mỏ tiếp nhận toàn bộ Tiểu đoàn 20
bộ đội miền Nam tập kết về để xây dựng mỏ - đây là đội ngũ chủ lực của
mỏ làm việc tới năm 1975, khi miền Nam hoàn toàn giải phóng. Nhiều công
trình trọng yếu của khu mỏ liên tiếp mọc lên, các phòng, ban, phân xưởng
phục vụ sản xuất được ra đời. Ngoài khu mỏ chính dưới chân đỉnh Am
Tiên, một số khu sản xuất quặng như Hoà Yên, Mỹ Cái… cũng được đưa vào
hoạt động. Sau 2 năm xây dựng, đầu năm 1960, Mỏ khánh thành nhà máy
tuyển quặng. Phát biểu tại lễ khánh thành nhà máy, ông Cao Văn Bổ, Giám
đốc Mỏ tuyên bố: Đưa nhà máy tuyển quặng vào hoạt động đánh dấu giai
đoạn phát triển mới, Mỏ bắt đầu công nghiệp hoá việc khai thác quặng,
đồng nghĩa với khối lượng và chất lượng của sản phẩm cao hơn. Để phục vụ
cho hoạt động này, Nhà nước đã đầu tư xây đựng tuyến tải điện trung thế
từ nhà máy nhiệt điện Hàm Rồng về tới mỏ. Khi được điện khí hoá, dãy
ngàn Nưa hàng triệu năm vẫn mang màu huyền bí, u linh bỗng đổi thay sắc
diện. Của báu muôn đời dấu sâu trong lòng đất, nay trở mình thức dậy
phục vụ xây dựng đất nước, tạo hạnh phúc cho không chỉ con cháu làng Cổ
định mà cho cả dân tộc Việt Nam.
Năm 1962, Mỏ Cromite Cổ định đã có
hơn 2.500 cán bộ, công nhân viên; sản lượng khai thác ước đạt 3.200 tấn.
Mỏ trở thành khu công nghiệp lớn nhất của tỉnh Thanh Hoá lúc bấy giờ.
Quả thực, đây là giai đoạn phát triển rực rỡ nhất của Mỏ. Toàn bộ khu Mỏ
là một công trường lớn, tiếng máy chạy đêm ngày, người công nhân hồ hởi
hăng say lao động sản xuất. Khi đêm về, ánh điện rực rỡ như ngàn vạn
ánh sao sa làm cho dãy ngàn Nưa thêm huyền ảo, lung linh. Đời sống cán
bộ, công nhân viên ngày được nâng cao, những dãy nhà cao tầng mọc lên,
các khu nhà tập thể tường vôi ngói đỏ cùng với hệ thống công trình phục
vụ đời sống tinh thần như: Câu lạc bộ, nhà hát, cửa hàng ăn uống, cửa
hàng thương nghiệp, thư viện…Không tuần nào lại không có chiếu phim,
hàng tháng vẫn có các đoàn văn công của Trung ương, của tỉnh về phục vụ;
phong trào văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao phát triển mạnh mẽ. Tất
cả những công trình và hoạt động ấy làm cho Mỏ như là một bông hoa mãn
khai giữa vùng quê vốn trầm lặng từ bao đời nay.
Trong lúc phong trào xây dựng XHCN ở
miền Bắc đang phát triển mạnh mẽ thì ở miền Nam đế quốc Mỹ xâm lược và
bè lũ tay sai liên tiếp bị thất bại nặng nề. Để cứu vãn tình hình, Mỹ ồ
ạt đưa quân vào trực tiếp tham chiến; đồng thời mở rộng chiến tranh đánh
phá bằng không quân, hải quân ra miền Bắc. Các cơ sở kinh tế, quốc
phòng, những tuyến giao thông quan trọng là mục tiêu đánh phá hàng đầu
của không quân Mỹ. Ở Thanh Hoá, sau khi đánh phá ác liệt cầu Hàm Rồng
thì từ ngày 8 đến 10 tháng 6 năm 1965 hàng trăm lượt máy bay Mỹ đánh phá
Mỏ Cromite Cổ Định. Khu mỏ trung tâm, khu vực hành chính, các vùng sản
xuất như Hoà Yên, Mỹ Cái, Mậu Lâm…bị bom đạn tàn phá nặng nề, hơn 50
người bị giết hại. Trong bối cảnh máy bay gầm rú xé toạc không gian, bom
đạn nổ rung trời đất, nhà cửa, cây cối đổ ngổn ngang nhưng bằng tinh
thần gan dạ, quả cảm tự vệ Mỏ phối hợp cùng dân quân xã Tân Ninh và bộ
đội phòng không đánh trả quyết liệt từng đợt oanh kích của không quân
Mỹ, một máy bay bị bắn cháy tại chỗ đâm đầu xuống Gò Đống Đá dưới chân
ngàn Nưa. Ba năm sau, một máy bay Mỹ nữa cũng chọn núi Nưa làm mồ chôn
kẻ xâm lược.
Ca ngợi chiến thắng này, một cán bộ của Mỏ đã viết bài vọng cổ, trong đó có những câu: Nhớ ngày 8 ngày 10 tháng sáu/ toàn Mỏ ta chiến đấu/ Mỹ điên cuồng lăn lộn ném bom/ Nhưng súng ta vẫn nổ dòn…Chiến
công ấy đã thể hiện rõ nét về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, sự đoàn kết
quân dân, sự hỗ trợ tích cực và hiệu quả của chính quyền và nhân dân
địa phương đối với Mỏ. Trong cuộc chiến đấu hiểm nguy ấy đã xuất hiện
nhiều hành động dũng cảm, nhiều câu chuyện xúc động về gương quên thân
mình vì đồng đội của các nữ dân quân làng Cổ Định. Dãy Ngàn Nưa từ xa
xưa đã bao lần chứng kiến những kẻ xâm lược vùi thây tại nơi đây, nay
một lần nữa lại chôn vùi bọn xâm lược Mỹ khi chúng dám động đến mảnh đất
linh thiêng này.
Từ năm 1965 trở đi, do bị tàn phá
nặng nề khó khắc phục được trong một sớm một chiều nên Mỏ Cromite Cổ
Định phải thu hẹp lại sản xuất. Tuy nhiên với khí thế “ một người làm
việc bằng hai tất cả vì miền Nam ruột thịt” Mỏ vẫn bừng lên khí thế sôi
nổi lao động sản xuất, lớp lớp cán bộ, công nhân viên đăng ký tòng quân
ra tiền tuyến, nhất là số cán bộ miền Nam tập kết nay hăm hở lên đường
trở về giải phóng quê hương. Bên cạnh việc tiếp tục đẩy mạnh sản xuất,
Mỏ thường xuyên huy động người, phương tiện phục vụ chiến đấu của Trung
ương, của tỉnh khi có yêu cầu. Nhiều năm liên tục Mỏ hoàn thành kế hoạch
trên giao, 3 lần được công nhận là lá cờ đầu của ngành công nghiệp
nặng.
Để ghi nhận những thành tích trong
lao động sản xuất và chiến đấu của Mỏ Cromite Cổ Định, Nhà nước đã tặng
thưởng Huân chương Lao động hạng Ba và Huân chương kháng chiến hạng
Nhất. Cùng với huyện Triệu Sơn, xã Tân Ninh được tuyên dương Anh hùng
lực lượng vũ trang nhân dân thời chống Mỹ. Trong thành tích vẻ vang của
xã Tân Ninh có phần đóng góp không nhỏ của Mỏ Cromite Cổ Định.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét