Một dòng họ - ba chánh sứ
LÊ HẢI
Đất Cổ Định
nằm tựa lưng vào dãy ngàn Nưa, trước mặt là dòng sông Lường nước chảy lững lờ
quanh năm. Có lẽ, chính nhờ thế đất “ tiền giang hậu sơn” ấy mà Cổ Định được
xem là đất khoa bảng. Suốt chiều dài lịch sử, ở triều đại nào các dòng họ lớn
trong làng lần lượt đều có người đỗ Đại khoa. Họ Doãn là một dòng họ như vậy.
Vào thời đại nhà Lý, nhà Trần đã có ba người được nhà vua tin cậy giao phó chức
chánh sứ sang Trung Quốc, đó là các ông Doãn Anh Khải, Doãn Tử Tư và Doãn Băng
Hiến ( Hài).
Như đã biết,
trong thời đại nào việc đi sứ sang phương Bắc là nhiệm vụ vô cùng quan trọng,
gian khổ và nguy hiểm. Nếu sứ giả thiếu tài năng, bản lĩnh làm nhục đến quốc
thể kể như mang tội chết; nếu làm đối phương tức giận gây chuyện binh đao cũng
là tội chết; chưa kể những khó khăn gian khổ gặp phải trên đường khi đi cũng
như khi về và việc bị coi thường, coi khinh của vua quan phương Bắc.
Đến nay, Gia
phả họ Doãn còn ghi rõ: vào thời nhà Lý, Cụ Doãn Anh Khải là người đầu tiên
trong dòng họ được vua Lý Thần Tông ( 1128 – 1138) cử đi sứ Trung Quốc. Tuy gia
phả không cho biết cụ Doãn Anh Khải sinh năm nào, mất năm nào nhưng vào thời
gian được cử đi sứ, cụ đang giữ chức Lệnh thư gia. Theo sách lịch sử chính
thống của nước ta thì : Mùa đông, tháng 10 năm
Canh tuất - Thuận Thiên thứ 3 ( 1130), nhà Tống sai sứ mang ấn báu và
sắc vàng sang phong vua Lý Thần Tông là Giao Chỉ quận vương… Tháng 12, năm ấy,
vua sai Lênh thư gia Doãn Anh Khải và Viên ngoại lang Lý Phụng Ân đi sứ sang
nước Tống mang lễ vật để đáp lễ, và tạ ơn (1) .
Trong thời
gian đi sứ sang nước Tống ( Trung Quốc), cụ Doãn Anh Khải đã cảm khái làm bài
thơ nói lên lòng mình:
Sứ
Tống
Trương tiết mao phụng mạng sứ thần
Vị dân vị quốc hiếu kỳ thân
Phong sương hà nại trung trường khổ
Quốc thể nan vong Sở dữ Tần
Biên cương bất định sinh đao kiếm
Giới hạn thiên thư dĩ định phân
Sứ sự Tống triều tồn minh mạc
Nhất tâm phụ quốc ắt thành nhân (2)
Dịch thơ:
Đi sứ nước Tống
Giương cờ đi sứ nước người
Vì dân, vì nước trọn đời hiếu
nhân
Gian lao nào quản đường trần
Bảo tồn quốc thể Sở, Tần sợ ai
Biên cương trời đã phân hai
Dẹp yên binh lửa tấu bài âu ca
Việc đi sứ lắm phong ba
Một lòng báo quốc ắt là thành
nhân.
( Lê Hải dịch)
Đây là lần đầu
tiên một người con ưu tú của làng Cổ Định đã làm tròn trọng trách của vua giao
phó, giữ hoà hiếu cho đất nước, để dân tộc Việt tiếp tục ổn định và phát triển.
Bằng trí thông minh và lòng quả cảm, cương trực, cụ Doãn Anh Khải đã để lại
tiếng thơm cho đất nước, quê hương.
NGƯỜI THỨ HAI
Cũng trong
triều đại nhà Lý, dòng họ Doãn còn sản sinh một vị sứ thần mà công trạng còn
hiển hách hơn nhiều, đó là ông Doãn Tử Tư. Như ông Doãn Anh Khải, gia phả dòng
họ Doãn không cho biết ông Doãn Tử Tư sinh và mất năm nào, hưởng thọ bao nhiêu,
thi đậu khoa nào chỉ cho biết vào thời vua Lý Anh Tông ( 1139 – 1175), ông Doãn
Tử Tư được cử giữ chức vụ Trung vệ đại phu.
Ông là người
được vua Lý Anh Tông hai lần cử đi sứ sang nước Tống. Lần thứ nhất vào năm Giáp
Thân - Chính Long Bảo Ứng thứ 2 ( 1164).
Lần thứ hai là năm Quý Tỵ - Chính Long Bảo Ứng thứ 11 ( 1173). Mùa thu, sai bọn
Doãn Tử Tư sang nước Tống biếu 15 con voi thuần… làm lễ chính lên ngôi ( Tống
Hiến Tông), 5 con dùng làm lễ chính trong kỳ lễ lớn, bành voi vua ngồi và các
đồ buộc ở ngù chân và đầu voi đều trang sức bằng vàng bạc. Ngoài ra, còn mang
theo vàng, bạc, tiền, hương liệu.. Bọn Tử Tư đến Lâm An, vua Tống cho ở quán
Hoài An, đãi cơm nước rất hậu rồi dẫn sứ nước ta yết kiến vua Tống để được an
ủi … Theo lệ cũ sứ tiến cống chưa bao giờ có đủ ba sứ thần. Đến khi Tử Tư sang
vua Lý Anh Tông cho Doãn Tử Tư làm đại sứ, cho Thừa nghị lang là Lý Bang Chính
làm chánh sứ; Trung dực lang là Nguyễn Văn Hiến làm phó sứ, sau ba sứ thần ấy
là Thư Trạng, Áp Nha, Trương Hành, bồi giới đều đủ cả. Khi đến nơi, vua nhà
Tống cho là từ xa đến càng khen là trung thành. Hơn nữa, đoàn sứ thần đầy đủ,
vật cống nhiều và đẹp, áo mũ, người vật đều chỉnh tề, sạch sẽ, vua Tống càng
vui lòng. Lại nhận thấy vua ta nối ngôi đã lâu cho nên đặc biệt đặt lễ khác
thường, ban chiếu cho quan Hữu ty bàn bạc về lễ đặt tên nước cho ta rồi tâu lên
ban tên nước là An Nam, phong cho vua ta là An Nam quốc vương, ban cho cái ấn
bằng vàng. An Nam
gọi là nước bắt đầu từ đấy ( 3).
Đây là một
thắng lợi ngoại giao vô cùng quan trọng và rạng rỡ đối với đất nước và nhân dân
ta thời bấy giờ. Theo: Việt sử thông giám cương mục triều Nguyễn đánh giá thì:
Nước ta từ trước đến nay dù có đánh thắng quân phương Bắc, tự lên làm vua, tự
quản lý đất nước nhưng dưới con mắt của họ, Đại Việt vẫn chỉ là một Quận ( Giao
Châu, hoặc Giao Chỉ), vua ta vẫn chỉ được phong là Tiết Độ Sứ, cao hơn là Giao
Chỉ quận vương hoặc Nam Bình Vương. Nay tình hình đã khác, nhờ chính sách ngoại
giao mền dẻo, linh hoạt của nhà Lý và bản lĩnh của đoàn sứ thần mà đất nước đã
có tên gọi, độc lập về cương thổ, vua ta chính thức được công nhận là vua của
một nước. Tuy nhiên tên An Nam cũng tồn tại mãi cho đến đời vua Minh Mạng ( nhà
Nguyễn) mới đổi thành Việt Nam.
Để tỏ rõ tấm
lòng trung trinh vì vua vì nước trong sứ mạng khó khăn nguy hiển nhưng cao cả
của đoàn sứ thần, cụ Doãn Tử Tư đã viết nên bài thơ:
Thông sứ Bắc
Tiếp phúc tổ tông thông sứ Bắc
Thiên nhai kiên trí học Tô Tần
Chiến tranh dĩ thức thùy siêu
việt
Ninh tĩnh giảng hoà hợp ý dân
Phụng chiếu thử hành tầm giai sự
Cùng thừa nhất khứ vãn hồi âm
Toàn ý toàn tâm vị quân quốc
Vạn trùng tiệp bộ khởi tinh thần.(4)
Dịch thơ:
Đi sứ Bắc
Sứ thần tiếp bước cha ông
Kiên trì học trí của ông Tô Tần
Hoà bình chính hợp lòng dân
Chiến tranh binh lửa bội phần xót
đau
Lệnh vua mang nặng trên đầu
Mong tin thắng lợi báo câu khải
hoàn
Quyết vì nước lặng, dân an
Ngàn
trùng mỗi bước tinh thần thêm hăng.
( Lê Hải dịch)
Về sự kiện
này, sử thần Ngô Thì Sĩ đã có lời bàn: Công gây dựng nước thực bắt đầu từ vua
Anh Tông, có thể nói là tốt đấy. Còn như Doãn Tử Tư hai lần vâng mệnh sang
Tống, làm tỏ được ý kính thuận, khiến cho Trung Quốc nổi lòng yêu mến, ân huệ
ban cho triều đình. Không chỉ vinh quang một thời mà còn để cho các đời sau
được nương tựa. Đi sứ như vậy, thật không thẹn với bậc sĩ phu (5).
NGƯỜI THỨ BA
Đến thời nhà
Trần, đời vua Trần Minh Tông ( lên ngôi năm Giáp Dần -1314 - ở ngôi 15 năm, nhường ngôi làm Thái
Thượng Hoàng 28 năm), dòng họ Doãn lại có một vị Thượng thư được vua tin tưởng
cử làm chánh sứ sang tranh biện với nhà Nguyên về việc tranh chấp biên giới. Đó
là Thượng thư Hình bộ Doãn Băng Hiến ( Hài).
Ông Doãn Băng
Hiến không rõ năm sinh, ông thi đậu Thái học sinh ( Tiến sĩ) khoa thi Giáp Thìn
- tháng 3 năm 1304. ( Khoa thi này làng Cổ Định có 4 người tham dự là các ông:
Doãn Băng Hiến, Lê Thân và hai em vợ ông Thân là Lê Duy Tiết, Lê Duy Xử. Cả bốn
người đều đậu đại khoa. Thời ấy, đây là sự kiện văn hoá lớn không chỉ của làng
Cổ Định mà của cả huyện Nông Cống và xứ Thanh Hoa. Ông Lê Thân chỉ đứng sau
Nguyễn Trung Ngạn nên ông được xem là người khai khoa cho huyện Nông Cống). (6)
Mùa hạ năm
Nhâm Tuất – Đại Khánh thứ 9 – Trần Minh Tông ( 1322), nhà Nguyên sang tranh
giành bờ cõi, sai ty Hành khiển Hình bộ Thượng thư là Doãn Băng Hiến sang
Nguyên tranh luận…(7). Ngoài việc hoàn thành xuất sắc sứ mệnh của vua giao phó
tranh biện với nhà Nguyên bảo tồn cương thổ, không để gây chuyện binh đao, ông
Doãn Băng Hiến còn để lại bài thơ nói lên chí khí của mình:
Mông Nguyên sứ sự
Lộ đồ viễn cách mệnh quân vương
Vạn thủy thiên sơn nhật nguyệt
trường
Bắc địa đoản đình tư cố quốc
Nam phương trường vọng cảnh tha hương
Mông Nguyên sứ sự tồn gian khổ
Lạc Việt phong tư điển kỷ cương
Đan tâm vị quốc thân hà nại
Nguyện đắc yên hàn quy cố hương
(8)
Dịch thơ:
Chuyện đi sứ nhà Nguyên
Đường xa cách trở lệnh vua sai
Vạn núi, nghìn khe tháng ngày dài
Đất Bắc bước đường thêm nhớ nước
Phương Nam
xa vọng ý không phai
Nguyên Mông đi sứ đầy thử thách
Lạc Việt non sông giữ hoà hài
Vì nước, vì vua lòng son sắt
Mong được yên hàn buổi quy lai.
( Lê Hải dịch)
Bất cứ người
nào xa quê hương đất nước đều ao ước được bình yên trở lại cố hương. Huống chi
vị Thượng thư Doãn Băng Hiến hơn một năm sống nơi đất Bắc, chẳng lúc nào lòng
lại không nhớ đến quân vương, đến non sông Lạc Việt, đến quê cha đất tổ ngàn
Nưa. “ Mong được yên hàn buổi quy lai”,
lòng mong ước trong bài thơ, ông đã không thực hiện được. Vì sự căng thẳng
trong thực thi nhiệm vụ tranh luận buộc nhà Nguyên tôn trọng lãnh thổ đất nước
và không có cớ để gây chuyện xâm lấn cùng bao nỗi gian lao vất vả trên đường mà
sau khi hoàn thành nhiệm vụ ông đã thọ bệnh mất trên đường trở về đất nước.
Được tin, vua
Trần Minh Tông và quan lại đồng liêu vô cùng thương tiếc. Để tưởng thưởng cho
công lao và tưởng nhớ tài năng, đức độ của ông, nhà vua đã truy tặng ông Doãn
Băng Hiến hàm Thiếu phó, tước Hương đình hầu, ban tặng đất đai lập ấp Doãn Xá,
nay thuộc xã Đông Thịnh, Huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá.
Ngoài ba vị
chánh sứ làm rạng danh đất nước quê hương nêu trên, dòng họ Doãn đến thời Lê sơ
lại xuất hiện một vị Khai quốc công thần Doãn Nổ. Năm 1407, nhà Minh ( Trung
Quốc) sau khi diệt nhà Hồ đã quay ra đàn áp các cuộc khởi nghĩa của người Đại
Việt. Làng Cổ Định gắn liền với ngàn Nưa, vốn là căn cứ quân sự của cuộc khởi
nghĩa Bà Triệu ( 246 – 248) chống lại ách đô hộ của giặc Ngô ( Ngô Quyền),
cũng là nơi cung cấp con người, lương
thực cho các cuộc khởi nghĩa trong vùng chống lại giặc Minh.
Năm 1415,
tướng giặc là Trương Phụ, trong một lần vây đánh cuộc khởi nghĩa của Nguyễn
Chích ( tại núi Hoàng Nghiêu – huyện Nông Cống) đã vây đánh “ diệt chủng” cả
làng Cổ Định. Trong gia phả những dòng họ lớn làng Cổ Định đều ghi câu: “ Dư
tam thiên nhân, Ngô tàn tận hẩy, tồn thập bát đinh”. Hơn 3000 nghìn
người bị giặc Minh giết hại, chỉ 18 người nam giới chạy thoát. Trong số 18
người ấy có ông Doãn Nổ, Lê Lôi, Lê Thìn ( cháu 5 đời của ông Lê Thân), sau đầu
quân theo Lê Lợi trở thành những vị Khai quốc công thần.(9)
Riêng ông Doãn
Nổ, không chỉ tham gia mười năm kháng chiến chống giặc Minh dưới trướng Lê Lợi
mà sau khi Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế ông vẫn là vị tướng trung dũng nhiều lần
mang quân đi đánh dẹp loạn quân và giặc Chiêm Thành quấy nhiễu biên cương.
Cuối đời, ông Doãn Nổ được điều về làm Quản
đạo trấn Sơn Nam
( chức vụ Trụ quốc Thượng tướng quân, tước Quang phục hầu, được ban Quốc tính
Lê Nổ). Ông được ban lộc điền tại Phương Chiểu ( cách Phố Hiến 4 km). Ông Doãn
Nỗ mất năm 1439. Hiện nay tại Phương Chiểu còn có đền thờ Doãn tướng công gọi
là : Công thần miếu. Trước miếu có đôi câu đối:
Lam Sơn vận dực Lê Hoàng thống
Khai quốc công thần Doãn tướng quân (10)
Dịch nghĩa:
Lam Sơn dựng lên triều vua Lê
Khai quốc công thần tướng họ Doãn.
L.H
Chú thích:
1- Đại Việt sử ký tiền biên ( Ngô Thì Sĩ), trang 271, NXB
KHXH, 1997
2- Gia phả họ Doãn ( Tân Ninh, Triệu Sơn, Thanh Hoá)
3- Đại Việt sử ký tiền biên ( Ngô Thì Sĩ), trang 292-293,
NXB KHXH, 1997
4- Gia phả họ Doãn ( Tân Ninh, Triệu Sơn, Thanh Hoá)
5- Đại Việt sử ký tiền biên ( Ngô Thì Sĩ), trang 294, NXB
KHXH, 1997
6- Gia phả họ Lê Đình ( Tân Ninh, Triệu Sơn, Thanh Hoá)
quyển thượng
7- Đại Việt sử ký tiền biên ( Ngô Thì Sĩ), trang 423, NXB
KHXH, 1997
8- Gia phả họ Doãn ( Tân Ninh, Triệu Sơn, Thanh Hoá)
9- Gia phả các dòng họ Lê, Lê Đình, Doãn… ( Tân Ninh,
Triệu Sơn, Thanh Hoá)
10- Cổ Định-đất và người ( Lê Bật Xuân), trang 90-91, NXB
Đại học sư phạm, 2008
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét