LÊ HẢI
Ngày
nay, khách du lịch đến thăm viếng Ngàn Nưa, trên đường từ trung tâm làng
Cổ Định vào đỉnh Am Tiên, khi đi hết hàng cây cổ thụ trên 100 tuổi thấy
phía bên tay phải một ngôi đền lợp ngói mũi hài, kiến trúc theo lối cổ.
Đó chính là đền thờ Luật Quốc Công Lê Thân. Đền nằm gần chân núi, cách
Phủ Nưa chừng hơn 200 mét. Năm 2003, Đền được Sở Văn hoá – Thông tin
tỉnh Thanh Hoá ra quyết định công nhận là Di tích lịch sử văn hoá cấp
Tỉnh-Thành phố. Vậy, ông Lê Thân là ai ? Có công trạng gì với quê hương,
đất nước ? Tại sao ông được xây dựng đền thờ… ? Những ai chưa một lần
đến thăm Ngàn Nưa, chưa thật sự hiểu hết về vùng đất này, đặt ra những
câu hỏi như thế cũng là điều dễ hiểu.
Theo
gia phả dòng họ Lê Đình ( quyển thượng) cho biết: Cụ Lê Thân , tự Lương
Hoà, hiệu Mộ Đức, sinh năm Nhâm Ngọ ( 1282). Ông nội cụ là Lê Ngọ, cha
là Lê Mùi đều là những nho sỹ có tiếng tăm, đức hạnh thời bấy giờ. Mẹ
của Cụ là bà Nguyễn Thị Đông, là người đoan chính, đảm đang việc nhà, có
lòng từ thiện nên trong họ ngoài làng đều quý mến.
Nhờ nếp
nhà nho sỹ, trời ban cho trí thông minh lại được cha mẹ
chăm lo nuôi
nấng học hành nên mới ngoài 10 tuổi, cụ Lê Thân đã làu thông Tứ thi, Ngũ
kinh, có tiếng là thần đồng. Năm 18 tuổi, Cụ đỗ đầu kỳ thi Hương,
thường được gọi là ông Thủ khoa Nưa. Đại đăng khoa rồi tiểu đăng khoa,
cùng năm ấy Cụ cưới bà Lê Thị Việt, con gái đầu ông Lê Duy Đàn – Hào
trưởng của làng – làm chính thất. Bà Lê Thị Việt cũng là người đoan
chính nết na, siêng năng cần kiệm, đảm đang việc tề gia nội trợ.
Tháng 3
năm Giáp Thìn - Hưng Long thứ 12 đời vua Trần Anh Tông ( 1304), triều
đình mở khoa thi Hội để tuyển chọn nhân tài. Cụ Lê Thân lúc này đã 22
tuổi, văn thơ nổi tiếng một vùng, cùng hai em vợ Lê Duy Tiết, Lê Duy Xử
và bạn học Doãn Băng Hiến ( Hài) về Thăng Long ứng thí. Thật là rồng
mây gặp hội, khoa thi này Mạc Đỉnh Chi đậu Trạng nguyên, cả 4 người con
làng Cổ Định đều đỗ Đại khoa, riêng cụ Lê Thân đỗ Hoàng Giáp ( xếp ngay
sau Nguyễn Trung Ngạn) nên cụ được xem là người khai khoa thi Hội của
huyện Nông Cống, sau khi cụ mất được phối thờ dưới Khổng Tử trong Văn
Miếu hàng huyện. Lúc bấy giờ, đây là sự kiện văn hoá lớn không chỉ của
làng Cổ Định mà của cả huyện Nông Cống và xứ Thanh Hoá. Đến nay, ở Cổ
Định nhiều người còn nhớ bài thơ trên bức trướng do dân làng thêu tặng
mừng sự việc ấy:
Tam tử đồng khoa
Toàn gia tam tiến phục chi lai
Nhất cử đăng khoa thực đại tài
Hữu chí cánh thành công danh toại
Kiên tâm tất đạt ý đương khai
Phúc trạch hữu dư năng phát triển
Âm bồi nhi cực dục hoà hài
Tự cổ chí kim thùy đắc thử
Lưỡng chi lan huệ nhất chi mai.
Tạm dịch:
Ba con cùng khoa
Nhà ba tiến sĩ hiếm xưa nay
Một khoa đỗ cả thực đại tài
Có chí công thành danh cũng toại
Bền lòng ắt được ý hoa khai
Phúc trạch đủ đầy còn phát triển
Âm bồi hai phía đức hoà hài
Xưa nay đâu dễ ai được thế
Hai cành lan huệ một cành mai.
Sau khi
thi đỗ, ban đầu Cụ được bổ dụng quan chức Hàn Lâm Học Sỹ. Cụ là người
đức độ lương hoà, chăm chỉ công việc, tư duy nhanh nhạy sáng suốt, lúc
nào cũng điền đạm khiêm cung nên dần dần được triều đình tin tưởng thăng
các chức vụ: Sử Trung Thừa, rồi thăng: Biên Tu Quốc Sử Quán, thăng: Đô
Ngự Sử, thăng: Thượng Thư Bộ Lễ, Thượng Thư Bộ Lại. Đến đời vua Trần Dụ
Tông, Cụ được mời làm Tể Tướng chức Nhập Nội Hành Khiển Khu Mật Viện Đô
Kỵ Sự. Năm Cụ là Thái Phó nhà vua giao cho Cụ cùng Trương Hán Siêu,
Nguyễn Trung Ngạn biên soạn bộ Hoàng triều đại điển và khảo đính bộ Hình thư. Do công lao ấy mà cụ được nhà vua phong tước Luật Quốc Công.
Cụ Lê
Thân làm quan trải bốn đời vua Trần ( Anh Tông, Minh Tông, Hiến Tông và
Dụ Tông) đóng góp nhiều kế sách giúp vua trị quốc an dân. Năm Nhâm Thìn –
Thiệu Phong thứ 12, Trần Dụ Tông ( 1352), khi này cụ Lê Thân đã 70
tuổi, thấy sức khoẻ giảm sút, các con cháu thì đều đã đỗ đạt làm quan,
mặt khác chính sự triều đình, và đạo đức hàng quan lại có những biểu
hiện ngày một suy vi thấy không còn hợp với mình nữa nên Cụ xin được trí
sĩ. Nhà vua lưu luyến, mấy lần yêu cầu Cụ ở lại tiếp tục giúp vua công
việc Quốc gia, nhưng lòng Cụ đã quyết. Cuối cùng vua Trần Dụ Tông đành
đồng ý, ban cấp tiền bạc, ruộng đất để Cụ được trí sĩ tại quê nhà.
Bao
năm đi xa, nay được trở về với quê hương bản quán, sống cùng gia đình,
họ hàng, bà con trong xóm ngoài làng. Cụ sống hoà nhã đôn hậu, hay làm
việc thiện nên ai ai cũng mến, thường gọi Cụ bằng cái tên trìu mến “
Quan già luật”. Cụ cho xây dựng chùa Vặng cúng làng Vĩnh Duyên ( nay là
làng Mậu, xã Tân Ninh) để lưu công đức.
Cụ Lê
Thân mất ngày 20 tháng 10 năm Đinh Mùi ( 1367), thọ 85 tuổi. Nghe tin Cụ
mất, triều đình cử quan khâm sai về phúng điếu và sắc phong Cụ là Phúc
thần làng Vĩnh Duyên. Năm sau, ( Mậu Thân – 1368), triều đình xuất công
quỹ xây dựng miếu thờ Luật Quốc Công Lê Thân, ban cấp ruộng đất cho con
cháu thu hoa lợi cúng tế hàng năm đồng thời khắc bia đá ca ngợi công lao
để lưu lại về sau. Bài văn bia như sau:
LUẬT QUỐC CÔNG VĂN BIA
Nông Cống Cổ Na danh lý
Thanh Hoá Việt tổ miếu hồng
Triều đình khai khoa tuyển sỹ
Bảng trương mạc Lê nhị công
Giang sơn tự hữu tuấn kiệt
Triều cương nhật nhật hào hùng
Đương sơ Hàm lâm hiệu lý
Trợ công vị trí Quốc công
Tứ triều danh thần lương tướng
Minh thần toàn hiếu toàn trung
Vãn niên vinh quy trí sỹ
Tử tôn đương chức tử hồng
Vị quan thanh liêm, chính trực
Vị dân hoà mục khiêm cung
Luân lý tương thân, tương trọng
Vãng lai truân cam dữ đồng
Thọ bát thập ngũ linh lạc
Du tiên chu quách thời phùng
Triều đình khâm sai điếu phúng
Quả nhiên ân điển vô song
Bàn minh lưu hậu công đức
Miếu vũ niên niên phụng cung
Vĩnh Duyên phúc thần phong sắc
Ngột bài hương hoả sa phong.
Đại Trị thập nhất niên xuân
Phụng mệnh cẩn soạn
( Mùa xuân năm Đại Trị thứ 11-1368
Vâng lệnh vua soạn )
Cụ Lê
Thân được xem là Tổ của dòng họ Lê Đình tại đất Cổ Định. Cụ có hai người
con trai. Ông Lê Dậu, sinh năm Nhâm Dần - 1302 ( con bà cả Lê Thị
Việt), thi đậu Cử nhân, làm quan thời Trần, chức vụ: Tả Thị Lang Bộ Hộ,
tước Khánh Xuân Bá; Ông Lê Quát, sinh năm Kỷ Mùi - 1319 ( con bà hai
Đặng Thị Lý, quê làng Phủ Lý, huyện Đông Sơn), thi đậu Tiến sĩ năm 21
tuổi - 1340. Ông là danh sỹ nổi tiếng thời Trần, làm quan tới chức
Thượng Thư Hữu Bật Nhập Nội Hành Khiển ( Thừa Tướng), để lại nhiều thơ
phú được người đời đánh giá cao về tài năng và đức độ. Các cháu nội là:
Lê Dần, thi đỗ Cử nhân làm quan tới chức vụ Đại Lý Tự Thiếu Khanh; Lê
Giốc, thi đỗ Tiến sĩ năm 25 tuổi, làm quan tới chức An Phủ Sứ kinh thành
Thăng Long, hy sinh vì tiết nghĩa được vua phong tặng là Mạ Tặc Trung
Vũ Hầu. Các đời sau này, trong dòng họ có nhiều cháu chắt thi đỗ cử
nhân, phó bảng, tiến sĩ, là danh nho của các triều đại phong kiến. Người
cuối cùng là ông Lê Đình Ngữ ( Ngô) làm quan triều Nguyễn, chức vụ Hàn
Lâm Học Sĩ, là thầy dạy của vua Khải Định.
Đến
nay, dù đã hơn 700 năm, nhưng vào ngày 20 tháng 10 ( AL), con cháu họ Lê
Đình từ khắp mọi miền Tổ Quốc vẫn tề tựu dưới mái nhà thờ Tổ Luật Quốc
Công Lê Thân, để báo cáo với các bậc tiên tổ những việc tốt mà cháu con
đã làm được cho đất nước, quê hương như lời các bậc tiền nhân đã dặn dò:
“Nội tộc hữu ẩn đức khổ tiết kỳ hành hảo học đẳng nhân – Trong nội tộc của mình có đức tính chịu khổ cực, có chí khí lo học hành thật giỏi để được bằng người”
và dâng nén hương thơm tưởng nhớ cụ Tổ Luật Quốc Công Lê Thân, người
bằng tài năng, đức độ đã để lại tiếng thơm cho dòng họ và quê hương.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét